DI STEFANO, GIUSEPPE

Nếu một ca sĩ mà được những giọng ca xuất sắc như Luciano Pavarotti hay Jose Carreras thú nhận rằng hồi trẻ đều coi là thần tượng thì chắc chắn ca sĩ đó phải là một tài năng lỗi lạc. Giuseppe di Stefano chính là một con người như vậy. Trong thời kì hoàng kim của mình, di Stefano sở hữu một giọng hát trữ tình tuyệt đẹp, tràn đầy cảm xúc, ngọt ngào, mượt mà, kĩ thuật pianissimo đỉnh cao cộng với một tư duy nhả chữ siêu hạng. Sir Rudolf Bing, tổng giám đốc Metropolitan Opera, New York sau khi nghe di Stefano hát aria “Salut! Demeure chaste et pure” trích từ vở opera Faust (Charles Gounod) với nốt c2 sáng chói, mạnh mẽ rồi nhỏ dần, nhỏ dần – 1 mezza di voce tuyệt hảo, đã thốt lên: “Một giọng hát đẹp nhất từ trước đến nay và tôi tự hỏi không biết đây có phải là giọng người không nữa?” Có nhiều nhà phê bình chê trách di Stefano rằng đã tự tàn phá giọng hát của mình bằng cách hát quá nhiều vai nặng và khi nhắc đến di Stefano họ cẩn thận thêm vào sau tên ông các tính từ: young (trẻ) hoặc old (già) để phân biệt rõ ràng 2 thời kì đỉnh cao và thoái trào của ông. Dù rằng chỉ thật sự tỏa sáng trên sân khấu opera trong vòng 1 thập kỉ (những năm 50 của thế kỉ 20) và là hơi ngắn ngủi so với các tenor khác nhưng 10 năm đó là 10 năm mà thế giới được thưởng thức một trong những giọng hát đẹp nhất, tuyệt vời nhất!

 Giuseppe di Stefano – hay Pippo – như những người thân vẫn gọi ông – sinh ngày 24 tháng 7 năm 1921 tại Motta Santa Anastasia, một làng nhỏ gần Catania trên đảo Sicilia, nước Ý. Bố cậu là thợ sửa giày còn mẹ là thợ may. Khi Giuseppe được 5 tuổi, gia đình cậu chuyển đến Milan và cậu bé bắt đầu theo học tại chủng viện dòng Tên St. Avialdo ở Milan và bắt đầu có ước muốn trở thành linh mục của nhà thờ Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, giọng hát rất đẹp của cậu là nguyên nhân khiến Giuseppe theo học các lớp thanh nhạc. Ban đầu cậu bé hát trong 2 dàn hợp xướng dành cho các bé trai ở Milan là Santa Maria Di Caravaggio và Duomo.

 Năm 1938, Giuseppe tham gia 2 cuộc thi hát tại Milan và Florence và đều giành giải nhất. Trong thời gian này, cậu cũng hát tại các quán cà phê, quán ăn và các rạp chiếu phim để kiếm sống và tích lũy thêm kinh nghiệm. Danh mục các tác phẩm biểu diễn lúc này là các bài hát Neapolitan, một vài aria trong các vở opera và các bài hát ăn khách nhất thời kì đó. Ngoài ra Giuseppe còn theo học hát dưới sự hướng dẫn của thầy giáo Adriano Tocchio của nhà hát La Scala đồng thời là thành viên bè tenor trong dàn hợp xướng của nhà hát.

 Năm 1940, di Stefano theo học hát với giọng nam trung Luigi Montesanto, tuy nhiên việc học tập bị gián đoạn do cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 xảy ra. Vào tháng 1 năm 1941, ông được gọi vào phục vụ trong quân đội tại Milan nhưng không được tham gia trực tiếp do có đôi chút vấn đề về đường hô hấp. Thay vào đó ông hát và bắt đầu trở nên nổi tiếng ở Milan dưới nghệ danh Nino Florio. Khi quân Đức tiến vào vùng Lombardia vào năm 1943 thì di Stefano chuyển đến Thụy Sĩ và hát trong trại tị nạn trước khi xuất hiện trên Radio Suisse Romande ở Lausanne trong thời gian 1944 – 1945 thu âm các trích đoạn trong L’elisir d’amore (Gaetano Donizetti) và Il Tabarro (Giacomo Puccini) cũng như các bài hát Ý. Tại Zürich, năm 1944, ông ghi âm các bài hát của Ý cho hãng EMI Classics tại các phòng thu HMV. Năm 1945 tại thánh đường St. Vincent, Bern, ông tham gia trong buổi lễ kỉ niệm cho sự chấm dứt của cuộc chiến tranh.

Ông trở lại Milan, Ý vào cuối năm 1945 và nối lại việc học tập với Montesanto, người sau này trở thành nhà quản lí cho di Stefano. Ông cũng tiếp tục ghi âm các bài hát Ý cho EMI tại các phòng thu HMV ở Milan vào tháng 4 năm 1946 dưới cái tên Nino Florio. Chỉ sau đó vài ngày, với sự giúp đỡ của Liduino Bonardi, một nhà quản lí khá nổi tiếng, di Stefano đã có buổi biểu diễn chuyên nghiệp đầu tiên của mình tại Reggio Emilia vào ngày 20 tháng 4 năm 1946 với vai Des Grieux trong Manon của Jules Massenet.

 Kể từ đó cái tên Giuseppe di Stefano trở nên nổi tiếng trên toàn nước Ý và ông liên tục xuất hiện trên khắp các nhà hát: Venezia (Les Pêcheurs de Perles, Georges Bizet), Genova (Rigoletto, Giuseppe Verdi), Lugo (L’Amico Fritz, Pietro Mascagni, (Rigoletto & La Traviata, Verdi), Reggio Emilia (L’amico Fritz), Bologna (La Sonnambula, Vincenzo Bellini), Piacenza (Manon), Ravenna (ManonLa Traviata) và Cesena (Manon) trong suốt mùa diễn 1946 – 1947. Tháng 3 năm 1946, di Stefano có chuyến xuất ngoại đầu tiên, ông có vinh dự là được xuất hiện trong buổi biểu diễn mở màn cho mùa diễn của nhà hát Liceu, Barcelona với Manon (vở opera này còn được diễn liên tục cho đến tận tháng 12), ngoài ra ông còn tham gia tại đây trong các vở La Sonnambula và Rigoletto.

 Tại nước Ý, di Stefano có những buổi biểu diễn đáng nhớ tại Rome, Trieste và La Scala trong các vở opera La sonnambula, Manon, I pescatori di perle (phiên bản tiếng Ý của Les Pêcheurs de Perles) trước khi đến Mĩ. Ngày 25 tháng 2 năm 1948, Giuseppe di Stefano có buổi ra mắt tại Metropolitan Opera, New York với vai bá tước Mantua trong Rigoletto và ngay sau đó là Des Grieux trong Manon. Ông hát tại đây trong suốt mùa diễn 1948 – 1949 trong các vở opera Mignon, La Traviata, L’elisir d’amore, Gianni Schicchi (Rinuccio) của Puccini, Falstaff (Fenton) của Verdi, La Bohème  của Puccini và  Faust. Cũng trong thời gian này, ông còn tham gia biểu diễn tại các nhà hát trên khắp nước Mĩ như Baltimore, Boston, Miami, Dallas, Los Angeles, Salt Lake City, Detroit, Pittsburgh và Cleveland. Ông đã trở thành một giọng tenor trữ tình gây xúc động lớn lao đến khán giả trong suốt những năm (1948 – 1952), nhưng một mối bất hòa đã dẫn đến việc ông chia tay với nhà hát vào năm 1952 mặc dù ông được đông đảo khán giả hâm mộ. Tuy nhiên sau này ông còn quay trở lại đây 5 lần để biểu diễn trong các vở Carmen của Bizet (1955), RigolettoTosca của Puccini, Faust (1956) và Les contes d’Hoffman của Jacques Offenbach (1965).

 Thập niên 50 đánh dấu sự ra đời của bộ 3 nổi tiếng: Giuseppe di Stefano – Maria Callas – Tito Gobbi. Lần đầu tiên họ hát cùng nhau là trong La Traviata tại Theatro Municipal, Sao Paulo, Brazil vào tháng 9 năm 1951. Sau này sự kết hợp của 3 người đã tạo nên những bản ghi âm bất hủ. Tháng 5 năm 1952, bộ đôi di Stefano – Callas xuất hiện cùng nhau trong I Puritani (Bellini) tại Palacio de Bellas Artes, Mexico City và Giáng sinh năm đó là trong La Gioconda (Amilcare Ponchielli) tại La Scala, Milan. Tổng cộng họ cùng nhau ghi âm 10 vở opera.

 Một trong những khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong sự nghiệp của di Stefano là buổi biểu diễn Lucia di Lammermoor(Donizetti) với nhạc trưởng lừng danh Herbert von Karajan tại La Scala vào tháng 1, 1954 bên cạnh Callas. Và đặc biệt không thể không nhắc đến buổi biểu diễn đã đi vào huyền thoại: Tosca tại La Scala vào tháng 8 năm 1954 dưới sự chỉ huy của Victor de Sabata bên cạnh những người bạn diễn quen thuộc Callas và Gobbi. Buổi biểu diễn này đã được EMI thu âm lại và phát hành trong loạt chương trình “The Great Recording of the Century”. Ngoài ra ta còn có thể kể đến buổi biểu diễnTosca cùng Renata Tebaldi tại Milan vào tháng 4, 1954 hay buổi ghi âm Requiem của Verdi cho EMI cùng Elisabeth Schwarzkopf, Oralia Dominguez và Cesare Siepi dưới sự chỉ huy của de Sabata. Sau đó là những buổi biểu diễn tại Metropolitan sau 3 năm vắng bóng trong các vở Carmen (cùng với Risë Stevens); Faust (Dorothy Kirsten và Jerome Hines);Rigoletto (Roberta Peters và Robert Merrill) và Tosca (Zinka Milanov và Tito Gobbi). Tháng 9 năm 1956, bộ 3 di Stefano – Callas – Gobbi lại một lần nữa tái hợp trong Rigoletto (bản thu của EMI).

 Ngay sau buổi biểu diễn Tosca, di Stefano và Tebaldi lại đem đến cho khán giả những ngạc nhiên thú vị khi xuất hiện trong Eugene Onegin của Peter Ilyich Tchaikovsky (bản tiếng Ý). Lúc này di Stefano đã đứng ở trên đỉnh vịnh quang và được coi như biểu tượng hàng đầu của La Scala. Nhưng Luchino Visconti, vị đạo diễn opera đầy quyền lực của La Scala lại không nghĩ như vậy. Tháng 5, 1955 sau buổi biểu diễn La Traviata dưới sự chỉ huy của Carlo Maria Giulini và sự tham gia của Callas cũng như di Stefano, Visconti tỏ ra tôn sùng Callas và coi bà là hình mẫu lí tưởng cho những vai chính mang màu sắc bi kịch, đồng thời việc các phương tiện truyền thông bao vây, xoắn xuýt với Callas và bỏ rơi ông đã khiến di Stefano hết sức khó chịu.

 Năm 1955 mang đến một sự thay đổi quan trọng trong danh mục các tác phẩm biểu diễn của di Stefano. Ông bắt đầu chuyển sang hát những vai nặng hơn (những vai spinto và thậm chí là dramatic). Đầu tiên là Don José (Carmen, Bizet); sau đó là Turiddu (Cavalleria Rusticana, Mascagni), Don Alvaro (La forza del destino, Verdi); Canio (Pagliacci, Ruggero Leoncavallo); Enzo (La Gioconda); Manrico (Il Trovatore, Verdi); Radamés (Aida, Verdi); Osaka (Iris, Mascagni) và nhiều vai khác nữa.

 Giuseppe di Stefano trở thành một giọng tenor trữ tình hàng đầu thế giới chỉ trong một thời gian ngắn ngủi nhưng lại không có khuynh hướng giữ vững vị trí của mình. Mối bất hoà giữa ông và Metropolitan Opera là bằng chứng thứ nhất, sự khó chịu với Visconti là lí do thứ 2 và việc chuyển sang hát các vai nặng là lí do thứ 3. Giọng hát của ông thực sự là không hợp với các vai nặng và đó chắc chắn không phải là phong cách của ông. Chính điều này đã làm giọng hát của ông bị tàn phá quá sớm. Những triệu chứng rõ rệt đầu tiên xuất hiện là vào những năm cuối của thập niên 50.

 Năm 1957 ông lại tiếp tục xuất hiện trong các vai spinto: Aida, Pagliacci và La forza del destino ở Milan; Iris và Carmen ở Rome, Vienna; Manon Lescaut ở Napoli và Vienna, Adriana Lecouvreur (Francesco Cilèa) ở Chicago trước khi trở lại với vai trữ tình quen thuộc trong L’elisir d’amore tại Edinburgh, đánh dấu lần đầu tiên xuất hiện của ông tại Vương quốc Anh. Tháng 10 năm 1958, di Stefano cộng thêm vào danh mục tác phẩm biểu diễn của mình 1 vai khá nặng: Calaf trong Turandot của Puccini (hát cùng với Birgit Nilsson tại Chicago dưới sự chỉ huy của Tullio Serafin) và tiếp đó, tháng 3 năm 1959 là Chenier trong Andrea Chenier (Umberto Giordano) tại Rome. Tháng 3 năm 1961, tại La Scala ông hát trong buổi công diễn lần đầu tiên tác phẩm Il calzare d’argento của Ildebrando Pizzetti dưới sự chỉ huy của Gianandrea Gavazzeni. Ông bắt chấp sự phức tạp của vai diễn và điều này đã khiến cho giọng hát của ông ngày càng trở nên suy giảm, trên thực tế là buổi biều diễn ra mắt của ông tại Covent Garden, London vào tháng 5 năm 1961 trong Tosca cùng Régine Crespin đã bị khán giả đón tiếp rất lạnh nhạt. Khi quay trở lại Covent Garden trong La Bohème cùng Joan Carlyle vào năm 1963, giọng hát của ông đã trở nên tồi tệ đến mức nghiêm trọng và di Stefano đã được thay thế bằng Luciano Pavarotti, người lúc này còn hoàn toàn vô danh.

Những năm giữa của thập niên 60, di Stefano ngày càng ít hát trên sân khấu opera và thay vào đó là những lần xuất hiện trong các concert và recital. Tuy nhiên ông cũng thử sức mình trong Rienzi (Richard Wagner) tại La Scala vào năm 1964. Năm 1965, một điều rất đáng tiếc đã xảy ra đối với di Stefano tại Buenos Aires. Tại đây ông có lịch diễn trong Un ballo in maschera (Verdi) với Teatro Colon, nhưng ông rất muốn được một lần nữa hát vai Cavaradossi (Tosca) bên cạnh Régine Crespin nhưng lúc này giọng hát di Stefano đã quá yếu nên ban giám đốc Colon đã quyết định hủy bỏ hợp đồng của ông. Một tai họa nữa lại xảy ra vào tháng 3 năm 1966 tại Pasadena khi di Stefano hát trong Otello (Verdi) cùng Gobbi.

 Trong những năm cuối của thập niên 60, di Stefano chỉ còn gặt hái được vài thành công nho nhỏ khi hát trong L’Incoronazione di Poppea (Claudio Monteverdi) tại La Scala vào tháng 1 năm 1967 hay chuyến đi lưu diễn tại Montreal, Toronto, Los Angeles, San Francisco, St. Louis và Vienna từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1967 trong Das Land des Lächelns(Franz Lehár). Trong những năm sau đó, ông tham gia rất hạn chế trong các vở opera và chủ yếu là hát trong các nhà hát nhỏ, ít nổi tiếng. Năm 1973, với buổi biểu diễn I Vespri Siciliani (Verdi) tại Torino, di Stefano đã chính thức giã từ sân khấu opera. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục hát trong các concert và recital cho đến tận thập niên 80. Năm 1973, ông tham gia trong tour diễn cuối cùng của Maria Callas, người bạn diễn thân thiết năm nào. Tháng 6 năm 1992 khi đã ở tuổi 71, thật bất ngờ khi Giuseppe di Stefano quay trở lại sân khấu opera khi ông hát vai hoàng đế trong vở Turandot tại Caracalla, Rome.

Ngày 30 tháng 11 năm 2004, di Stefano bị một chấn thương khá nghiêm trọng tại nhà riêng ở Diani, Kenya sau khi bị một nhóm người không rõ nguồn gốc tấn công. Bọn cướp xông vào nhà ông và di Stefano bị chúng đánh vào đầu trong khi đang cố gắng bảo vệ vợ. Ông được đưa ngay vào bệnh viện Mombasa cấp cứu và sau đó được chuyển về bệnh viện San Raffaele, Milan. Sức khỏe ông đã hồi phục rất tốt và sau một thời gian điều trị đã trở lại bình thường. Nhưng đến tháng 12 năm 2007, Giuseppe di Stefano bị một cơn hôn mê sâu và ông đã qua đời tại nhà riêng ở Santa Maria Hoè gần Milan vào ngày 3 tháng 3 năm 2008.

 Đỉnh cao thành công đã cách xa nửa thế kỉ. Những người bạn diễn thân thiết năm nào như Callas, Tebaldi, Gobbi đều đã ra đi. Và sau ông đã nổi lên những giọng lyric tenor nổi tiếng như Alfredo Kraus hay Jose Carreras nhưng trong tâm hồn của những người yêu âm nhạc vẫn còn đó nguyên vẹn một Giuseppe di Stefano của thập niên 50 với tiếng hát đẹp một cách diệu kì. Xin cảm ơn di Stefano về tất cả những gì ông đã cống hiến cho nghệ thuật opera và cả về những cảm xúc mà những người yêu nhạc được tận hưởng khi thưởng thức giọng hát của ông – một trong những giọng tenor trữ tình vĩ đại nhất mọi thời đại!