FLAGSTAD, KRISTEN

”Tên tuổi của người nghệ sĩ có sống mãi hay không, điều này chẳng có giá trị gì đối với tôi. Danh hiệu và tiếng tăm cũng chỉ là những thứ vô nghĩa. Với tôi chỉ đơn giản là bạn hãy gắng làm hết sức mình mà thôi.” – Kristen Flagstad

“Khi Flagstad qua đời tại Oslo vào ngày 7 tháng 12 năm 1962, bà đã bước vào ánh hào quang rực rõ của đỉnh Valhalla đang vẫy gọi. Bà chính là một huyền thoại để các thế hệ sau phấn đấu vươn tới.” – Max de Schauensee

 Kristen Flagstad sinh ngày 12 tháng 7 năm 1895 tại Hamar, một tỉnh ở Na Uy, nơi mà ngay cả khi đã trở thành một nghệ sĩ đẳng cấp thế giới với những chuyến lưu diễn xa xôi, bà vẫn không ngừng nhớ về nó với một tình cảm nồng ấm, như bà từng thổ lộ: “Tôi vẫn luôn nói rằng tôi đến từ Hamar và tôi thực sự tự hào về điều đó. Đến lúc này, tôi vẫn luôn cảm thấy rằng đó chính là quê hương thực sự của mình”. Gia đình của Flagstad có một truyền thống âm nhạc đáng quý, phần nào ảnh hưởng đến quyết định của bà về việc trở thành một nghệ sĩ cống hiến cho âm nhạc: cha bà là một nhạc trưởng có tiếng ở Na Uy thời bấy giờ còn mẹ của bà là một nhạc công đệm đàn piano. Ngay từ nhỏ Flagstad đã được mẹ dạy hát, và rồi bà tiếp tục được gửi đến Oslo học hát với Ellen Schytte-Jacobsen, một giảng viên thanh nhạc là bạn thân của mẹ. Ngay sau đấy Flagstad lại được học với Albert Westwang. Ông đã cố gắng hướng Flagstad đến với âm nhạc Wagner dù điều này dường như quá xa với đối với sự tưởng tượng của cô học trò nhỏ. Tài năng sớm nở rộ, năm 18 tuổi, dù vẫn còn đang là sinh viên, Flagstad đã có buổi diễn xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên với vai Nuri trong vở Tiefland của Eugen d’Albert.

 Tuy nhiên, chất giọng kịch tính tuyệt vời của Flagstad được biết đến ngày nay phải trải qua một quá trình rất dài để được phát hiện, công nhận và phát triển toàn diện. Trong những năm tháng đầu sự nghiệp, Flagstad hát khá nhiều vai, từ những vai operetta của Đức và Na Uy, đến những vai spinto của Verdi như Amelia trong Un Ballo maschera, Desdemona trong Otellovà một số vai verismo của Puccini, thậm chí Flagstad còn tham gia biểu diễn trong những vở opera thời kỳ Baroque của Handel. Nhiều nhà phê bình âm nhạc thời bấy giờ cho rằng chất giọng kịch tính của bà không thực sự phù hợp những vai diễn ấy. Thời gian này, Flagstad làm việc chung với nhạc trưởng Alexander Varnay tại nhà hát opera ở Oslo (Alexander cũng chính là cha của giọng soprano kịch tính nổi tiếng trong thập niên 50-60 của thế kỉ 20 Astrid Varnay). Nhìn chung, thế mạnh thật sự của Flagstad vẫn chưa được phát huy vì chưa ai có thể khai thác những khả năng tiềm ẩn bên trong giọng hát của Flagstad.

 Về sau, theo góp ý của những nhà phê bình, Flagstad biểu diễn thường xuyên hơn 2 vai Tosca và Aida, vốn đòi hỏi một chất kịch tính vượt trội hơn những vai mà Flagstad đã hát trước kia. Tuy nhiên, chỉ mãi đến khi Flagstad tham gia vở Tristan und Isolde của Wagner năm 1932, các nhà phê bình và chính bản thân bà mới thực sự tự tin vào con đường mới đầy tiềm năng mở ra trước mắt : trở thành một huyền thoại của Wagnerian opera (những ca sĩ chuyên hát những vai lớn trong opera của Richard Wagner). Nhờ vào sự giúp đỡ của nhiều đồng nghiệp thân cận lúc đó, trong đó có cả Ellen Gulbranson (soprano rất được yêu thích tại Bayreuth thời đó) và Winifred Wagner (là người con dâu của Richard Wagner vốn có ảnh hưởng sâu rộng trong tình hình văn hoá và chính trị bấy giờ ở Đức), Flagstad đã khởi sự ở nhà hát Bayreuth như một ca sĩ Wagnerian đang học tập và trải nghiệm. Trong thời gian từ năm 1932 đến 1934, Flagstad đảm nhiệm hát nhiều vai phụ, vai thứ trong các opera của Wagner như Sieglinde trong Die Walküre, Gutrune trong Götterdämmerung.

 Những năm tháng quý giá tại Bayreuth, nhà hát lí tưởng và mơ ước cho mọi ca sĩ Wagnerian, đã tiếp cho Flasgtad nhiều kinh nghiệm và sự tự tin. Thế rồi một chuỗi các sự kiện xảy đến, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp của Flagstad. Ngày 2 tháng 2 năm 1935, Flagstad lần đầu tiên ra mắt công chúng tại nhà hát Metropoliatan (Mỹ) với vai Sieglinde. Bốn ngày sau thành công rực rỡ trên, Flagstad được giao cho vai Isolde và rồi lại tiếp tục với vai chủ lực nhất trong các sáng tác của Wagner – nàng Brünhlide (Chiềc nhẫn Nibelungen) trong suốt tháng sau đó. Tên tuổi của bà toả sáng rực rỡ như một Wagnerian soprano của thời đại. Sau này, Flagstad đã phát biểu rất cảm động về buổi debut của mình như sau: “Tôi sẽ không bao giờ quên được cái ngày hôm ấy, khi một ca sĩ gần như vô danh chợt trở thành một ngôi sao hàng đầu của thế giới.” Từ năm 1936 trở đi, khi đã khẳng định chỗ đứng của mình tại Metropolitan, Flagstad cũng xây dựng cho mình một kịch mục biểu diễn ổn định: bà bổ sung vào vai Elsa trong Lohengrin, Elisabeth trong Tannhäuser, Senta trong Der fliegende Holländer, Kundry trong Parsifal và Fidelio (vai diễn không phải trong opera của Wagner duy nhất mà Flagsatd hát tại Metropolitan trước thế chiến thứ 2). Cũng phải công nhận rằng chính Flagstad đã là người cứu Metropolitan vượt qua cơn khủng hoảng tài chính trầm trọng trong thời gian này. Thế nhưng, những bất hoà đối với người bạn diễn Lauritz Melchior và Edward Johnson khiến cho việc biểu diễn của Flagstad tại Metropolitan không phải lúc nào cũng đuợc được suôn sẻ cho lắm (sau này Flagstad đã hàn gắn những mối rạn nứt với họ, hơn nữa chính Melchior và Johnson cũng giúp đỡ Flagstad vượt qua thời gian khó khăn khi bà bị công kích sau cuộc Đại chiến).

 Khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Flagstad liên tục gánh chịu những điều rủi ro ảnh hưởng đến sự nghiệp mà bà đã tốn công gây dựng biết bao năm trời trên đất Mỹ. Năm 1940, khi thế chiến thứ 2 bùng nổ, Flagstad quyết định cùng chồng là Henry Johansen quay về quê hương, nơi đang bị Đức quốc xã chiếm đóng. Sau này, Johansen bị giam cầm với lí do là có dính líu đến Phát xít về mặt kinh tế (mặc dù thực tế thì chính ông còn giúp đỡ cả phe Cách mạng) và qua đời do lâm bệnh nặng. Flagstad, dù chưa bào giờ biểu diễn như một ca sĩ để ủng hộ cho phe Phát xít, vẫn bị tai tiếng và những hiểu lầm đeo đuổi. Không những cái chết của Johansen, mà sự phản đối của những kẻ có ác cảm với bà cũng gây cản trở không nhỏ đến sự nghiệp biểu diễn xuyên suốt thời gian thế chiến. Khi chiến tranh trôi qua, Flagstad quay lại Mỹ. Trong suốt các mùa diễn từ 1947 đến 1949, bà nhanh chóng chiếm lại cảm tình của khán giả , khẳng định tầm vóc, vị trí của một Flagstad trước kia. Flagstad cực kì vững tâm đứng trên sân khấu, bất chấp bị khán giả lá ó đả kích vì những hiều lầm liên quan đến Đức quốc xã. Tiếp theo đó, Flagstad thực hiện một chuyến công diễn ở châu Âu từ Covent Garden (Anh) cho đến nhà hát opera Paris (Pháp), Salztburg (Áo) và La Scala (Ý). Cuối cùng, chính Rudolf Bing đã chính thức mời Flagstad quay lại Metropolitan, nhà hát mang đầy kỉ niệm với Flagstad. Tại đây, năm 1952, Flagstad chính thức chia tay sân khấu opera với vai Alceste trong vở opera cùng tên của Gluck. Nhưng bà vẫn còn đầy nhiệt huyết cống hiến cho nghệ thuật; Flagstad vẫn xuất hiện trong các recital về ca khúc thính phòng hay nhận thu âm cho EMI và Decca. Đối với bà, “Còn hát là còn được sống”.

 Trong số các soprano kịch tính nổi tiếng của thế kỷ 20, Flagstad sở hữu một giọng hát độc đáo không lẫn vào đâu được. Không những có âm lượng khổng lồ, khoẻ khoắn, nổi trội xuyên thấu cả dàn nhạc và đậm chất kịch tính như một Wagnerian soprano chuẩn mực, âm sắc trong giọng hát của Flagstad còn có nét đặc trưng : ấm áp , truyền cảm, rất đúng chất Na Uy. Ngoài ra, Flagstad là một trong số ít những soprano kịch tính không bị hỏng giọng và duy trì đụơc chất giọng tốt đến cuối sự nghiệp biểu diễn. Theo một số nhà phê bình, nguyên nhân khách quan là do mãi đến gần 40 tuổi Flagstad mới thật sự diễn các vai nặng và sự trì hoãn trong thời gian chiến tranh khiến bà ít phải xuất hiện quá nhiều trong các buổi diễn. Dù đỉnh cao phong độ của Flagstad đến trước thời hoàng kim của công nghệ thu âm, chúng ta cũng thật may mắn lưu giữ lại được một số bản thu của bà. Những bản thu trước thế chiến thứ 2, dù chất luợng âm thanh không thực sự tốt, nhưng ta dễ nhận ra một Flagstad đầy nội lực và cảm xúc,người vừa từ bỏ opera Ý để gắn bó với opera Wagnerian. Kinh điển nhất trong số các bản thu của thời kì này phải kể đến bản Tristan und Isolde thu live năm 1936 với Tenor huyền thoại Lauritz Melchior. Sau thế chiến thứ 2, khi những thành kiến đã chấm dứt và sự trờ lại của bà được chào đón nồng nhiệt, những bản thu của Flagstad được trau chuốt kĩ lưỡng hơn, thực hiện công phu hơn. Lúc này, dù đã ngoài 60 tuổi, những note C3 huyền thoại đã xa vời tầm tay, chất giọng của Flagstad vẫn còn tuyệt vời như ngày nào. Nàng Brünhilde lúc này có thể không còn dũng mãnh như ngày xưa, nhưng nàng Isolde của Flagstad là bất tử theo thời gian và tuổi tác. Đó là cả một sự cân bằng giữa kịch tính và trữ tình, giữa nội tâm và diễn xuất, giữa một nhân vật lí tưởng trên sân khấu với một người nghệ sĩ giàu kinh nghiệm. Bản thuTristan und Isolde với EMI do nhạc trưởng Wihelm Furtwängler chỉ huy năm 1951 thực sự là một kì công trong lịch sử của ngành thu âm cổ điển. Dưới sự giám sát chặt chẽ của Walter Legge và một đội ngũ ca sĩ chuyên nghiệp (Suthaus, Fischer-Dieskau, Evans…), Flagstad đã làm sống lại Isolde tại Metropoltan gần 20 năm về trước. Xuyên suốt thập niên 50, Flagstad còn thể hiện các trích đoạn trong các tác phẩm thanh nhạc tôn giáo như Messiah của Handel, Mass in B minor của Bach, các Hymn của Mendelssonh… Chất giọng truyền cảm và sâu lắng của một nghệ sĩ đã ngoài 60, mang đến cho những tác phẩm trên một ấn tượng sâu sắc và sức truyền cảm mãnh liệt đến thính giả. Soprano nổi tiếng Joan Sutherland cũng là một người cực kì hâm mộ Flagstad. Trong giai đoạn đầu cuả sự nghiệp ca hát, Sutherland chịu ảnh hưởng khá rõ rệt theo phong cách của Flagstad, từ cách nhã chữ đến kịch mục biểu diễn; và mãi về sau, khi từ bỏ các vai kịch tính, Sutherland vẫn luôn nói về Flagstad với một sự ngưỡng mộ sâu sắc.

 Flagstad còn là một ca sĩ hát lied tài năng. Dù lied không chiếm phần quan trọng trong sự nghiệp biểu diễn như Elisabeth Schwarzkopf, Victoria de los Angeles, Dietrich Fischer-Dieskau… Flagstad cũng để lại một số lượng lớn các bản thu những ca khúc nghệ thuật của Beethoven, Brahms, Dvorak, Sibelius, Wagner, Mahler và Grieg . Khi thể hiện những ca khúc của một nhạc sĩ đồng hương như Grieg, Flagstad đã đặt hết vào đó niềm tự hào và những cảm nhận sâu sắc nhất về thiên nhiên, con người và những giai điệu dân ca Na Uy trong âm nhạc quyến rũ đến mê hồn của Grieg. Ngoài ra, tên tuổi Flagstad còn gắn liền với chùm tác phẩm Wensedonck Lieder của Wagner, thường được coi như là một phiên bản thu nhỏ của Tristan und Isolde. Sau khi hoàn thành tác phẩm Vier Letze Lieder, Richard Strauss có nguyện vọng đề tặng nó cho Flagstad và chính bà là ngùơi đã thể hiện tác phẩm trong buổi công diễn ra mắt với nhạc trưởng Furtwängler năm 1950. Có lẽ đối với Strauss, Flagstad là soprano lý tưởng nhất để truyền đạt lại những tâm nguyện mà ông gửi gắm trong 4 ca khúc cuối đời.

 Flagstad qua đời tại Oslo vì bệnh ung thư tuỷ, thọ 67 tuổi. Đất nước Na Uy tiếp nhận bà như một tài năng xuất sắc của dân tộc, bên cạnh các vĩ nhân trong lĩnh vực nghệ thuật: Kịch tác gia Henryk Ibsen, nhà soạn nhạc Edward Grieg và hoạ sĩ Egvard Much. Trong một lần phỏng vấn năm 1958, Flagstad đã từng nói: “ Tôi luôn bảo với mọi người rằng tôi đến từ Hamar, và tôi hãnh diện vì điều đó. Hamar, đó là quê hương yêu dấu của tôi.” Có lẽ vì thế, theo tâm nguyện của bà, chính quyền đia phương đã cho dựng ở Hamar một viện bảo tàng lớn lưu trữ những kỉ vật trong suốt những năm lưu diễn của Flagstad. Chính phủ cũng quyết định lấy chân dung của bà in trên đồng 100 kroner của hệ thống tiền tệ Na Uy. Người dân Na Uy nhớ tới bà như một người từng được xưng tụng là “Giọng ca của thế kỷ”, “Nữ hoàng của các ca sĩ”, hay “Ca sĩ Wagnerian vĩ đại nhất trong lịch sử”. Chính tài năng và sự cống hiến hết mình cho nghệ thuật đã làm cho tên tuổi của bà trở thành bất hủ trong lịch sự opera. Hơn nữa, cũng như Maria Callas, Enrico Caruso, Rosa Ponselle hay Marian Anderson, tầm vóc và ảnh hưởng của Kristen Flagstad đã vượt khỏi vai trò của một người ca sĩ, mà trở thành một biểu tượng văn hoá của thế kỷ 20.

───

PIANO HOUSE

HỆ THỐNG PHÂN PHỐI PIANO CAO CẤP

popup

S� l��ng:

T�ng ti�n: