WEBER, CARL MARIA VON

Nhà soạn nhạc người Đức Carl Maria Friedrich Ernst, Freiherr von Weber sinh ngày 18/11/1786 ở Eutin, là con cả trong số ba người con của Franz Anton von Weber (người hình như thật ra không có từ “von” chỉ tầng lớp quý tộc trong tên họ) và người vợ thứ hai, Genovefa Brenner, một nữ diễn viên. Franz Anton đã bắt đầu sự nghiệp sĩ quan quân đội của mình bằng việc phục vụ trong lãnh địa Holstein, về sau ông nắm giữ một số vị trí giám đốc âm nhạc. Vào năm 1787 Franz Anton tới Hamborg, nơi ông thành lập một đoàn sân khấu. Người chị họ Constanze của Weber chính là vợ của nhà soạn nhạc Wolfgang Amadeus Mozart.

Weber đã được cha mình dạy cho những kiến thức âm nhạc tuy có bị gián đoạn do những lần di chuyển cấp bách của gia đình. Vào năm 1796, Weber đã tiếp tục học âm nhạc ở Hildburghausen dưới sự hướng dẫn của nghệ sĩ chơi oboe Johann Peter Heuschkel.

Ngày 13/3/1798 mẹ của Weber qua đời vì bệnh lao phổi. Cùng năm đó, Weber tới Salzburg theo học nhà soạn nhạc Áo Michael Haydn (em trai của Joseph Haydn) rồi sau đó đến Munich theo học ca sĩ Johann Evangelist Wallishauser (nghệ danh là Valesi) và nghệ sĩ organ J.N. Kalcher. Cũng vào năm 1798, tác phẩm đầu tiên của Weber đã được xuất bản ở Leipzig, đó là 6 fughetta (fugue nhỏ) viết cho piano. Những sáng tác khác trong thời kỳ này của Weber gồm có một mass và vở opera đầu tiên Die Macht der Liebe und des Weins (Sức mạnh của Tình yêu và Rượu vang) nhưng đã bị thất lạc.Tuy nhiên một bộ Variations for the Pianoforte (Những biến tấu cho đàn piano) về sau đã được chính Weber in lại bằng kỹ thuật in thạch bản dưới sự chỉ dẫn của Alois Senefelder, người phát minh ra quy trình này. Weber đã học kỹ thuật in thạch bản để in các tác phẩm của chính mình.

Vào năm 1800, gia đình Weber chuyển tới Freiberg, ở Saxony nơi mà Weber lúc đó 14 tuổi đã viết một vở opera có tên Das stumme Waldmädchen (Sự im lặng của nữ chúa rừng) được trình diễn ở nhà hát Freiberg. Về sau vở opera này cũng được trình diễn ở Vienna, Prague và St. Petersburg. Năm 1801, gia đình lại quay về Salburg, nơi Weber lại tiếp tục các bài học với Michael Haydn mà về sau ông theo học tiếp tại Vienna với Abbé Vogler. Abbé Vogler là nhà soạn nhạc Đức, nghệ sĩ organ, nhạc sư và nhà lý luận, người đã thành lập ba trường âm nhạc quan trọng ở Mannheim, Stockholm và Darmstadt. Abbé Vogler cũng có một người học trò nổi tiếng khác là Giacomo Meyerbeer, người đã trở thành bạn thân của Weber.

Vào năm 1803 vở opera Peter Schmoll und seine Nachbarn (Peter Schmoll và những người láng giềng) của Weber được trình diễn ở Augsbursg và đem lại cho ông thành công đầu tiên với tư cách một nhà soạn nhạc được ngưỡng mộ. Vogler, vốn rất ấn tượng với tài năng hiển nhiên của người học trò, đã tiến cử ông cho vị trí Giám đốc tại nhà hát opera ở Breslau (1804) và từ 1807 đến 1810, Weber đã giữ một chức vụ tại triều đình Duke of Württemberg, ở Stuttgart.

Trong khi cuộc sống riêng của ông thời kỳ này còn chưa ổn định (ông đã bỏ chức vụ ở Breslau vì thất vọng trong một lần bị bắt giữ do nợ nần và gian lận, bị trục xuất khỏi Württemberg cũng như dính líu và nhiều vụ tai tiếng), ông vẫn thành công với tư cách một nhà soạn nhạc và cũng viết một số lượng lớn âm nhạc nhà thờ, chủ yếu là các bản mass Cơ đốc giáo. Phần lớn âm nhạc cho nhà thờ Cơ đốc giáo thế kỉ 19 của Weber rất phổ biến ở Đức. Tuy nhiên điều này đã đem lại cho ông thái độ thù địch của những người chủ trương cải cách đang tiến hành chính thức hóa thánh ca truyền thống trong nghi lễ.

Năm 1810 Weber đã tới thăm một số thành phố khắp nước Đức, từ năm 1813 đến 1816 ông là giám đốc của nhà hát opera ở Prague, từ 1816 đến 1817 ông làm việc tại Berlin và từ 1817 trở đi ông làm giám đốc của nhà hát opera lừng danh ở Dresden, làm việc chăm chỉ để thiết lập một trường phái opera Đức, phản ứng lại trường phái opera Ý đã thống trị diện mạo âm nhạc châu Âu từ thế kỉ 19.

Buổi trình diễn lần đầu thành công của vở opera Der Freischütz (Nhà thiện xạ) ngày 18/6/1821 tại Berlin đã mở đầu cho những lần trình diễn tiếp theo trên toàn châu Âu. Ngày nay Der Freischütz vẫn còn là một trong những vở opera của Weber nằm trong vốn tiết mục được trình diễn thường xuyên. Bề ngoài đây là một Singspiel (kịch-hát, một hình thức của nhạc kịch sử dụng ngôn ngữ Đức, được xem là một loại operetta hay opera) ca tụng văn hóa dân gian Đức và đời sống thôn quê. Nhờ việc sử dụng tài tình các motif từ âm nhạc dân gian trung Âu, những hòa âm và lối phối dàn nhạc giàu màu sắc, cách bài trí về thị giác và nhạc cụ cùng với libretto buồn rầu ảm đạm, kết thúc bằng sự xuất hiện của chính Quỷ sứ trong một khu rừng về đêm, đặc biệt là cảnh thung lũng sói, một hình mẫu nổi bật trong âm nhạc về cách xử lý đầu thời kỳ Lãng mạn đối với lực lượng hiểm ác và siêu nhiên – ông đã đem lại cho tác phẩm này một cấp bậc sáng tạo mới cũng như đảm bảo được tính đại chúng của tác phẩm.

Vào năm 1823 Weber đã sáng tác Euryanthe, một vở opera lớn mang tính anh hùng ca. Mặc dù có libretto xoàng xĩnh nhưng cũng tạo ra một bước tiến xa hơn trong sự thống nhất những kết cấu hòa âm và hình thức, tiếp tục tiến tới thể loại opera được sáng tác một cách tự do. Năm 1824 ông nhận được lời mời từ nhà hát Convent Garden, Luân Đôn để sáng tác và trình diễn vở Oberon, phỏng theo vở kịch Giấc mộng đêm hè của William Shakespeare. Weber đã chấp nhận lời mời và năm 1826 chuyển đến Anh để hoàn thành tác phẩm, cho trình diễn vào ngày 12/4/1826. Vở Oberon được Weber quay sang viết khác biệt hẳn với một số vở khác để phù hợp với thị hiếu Anh song tác phẩm vẫn giữ lại cách trình bày motif tài tình một cách đặc trưng và sự miêu tả cả những yếu tố tự nhiên lẫn siêu nhiên.

Mặc dù Oberon được người Anh đón nhận nồng nhiệt và Weber luôn quan tâm tới sức khỏe của mình nhưng hành trình cuối cùng này đã đẩy nhanh sự suy sụp và ông qua đời vào đêm mùng 4 rạng ngày mùng 5 tháng 6/1826 vì bệnh lao ở tuổi 39. Ông được chôn cất tại Luân Đôn nhưng 18 năm sau đó hài cốt đã được chuyển về chôn tại Dresden theo một sáng kiến của nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner. Vở opera Die Drei Pintos còn dở dang của ông được người vợ góa trao cho Mayerber viết tiếp nhưng cuối cùng nó lại được hoàn thiện bởi Gustav Mahler, người đã chỉ huy trong buổi công diễn lần đầu tác phẩm này ở Leipzig vào ngày 20 tháng 1 năm 1888.

Sáng tác của Weber, đặc biệt là các vở opera của ông, có ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của opera Lãng mạn trong âm nhạc Đức. Sự học hỏi trường phái Lãng mạn của Weber có thể thấy trong hương vị tình cảm mới lạ ở âm nhạc của ông và sự liên quan rõ nét của nó tới chủ nghĩa dân tộc Đức, sự tiếp thu tinh tế từ thiên nhiên cũng như từ những ấn tượng mang tính văn học và hội họa của ông, những hoạt động song song với tư cách nhà phê bình, nghệ sĩ piano bậc thầy và nhà chỉ huy, cống hiến của ông cho sự phát triển của một thể loại opera mới mẻ kết hợp mọi nghệ thuật và trên hết là mong ước truyền đạt cảm xúc của ông. Vai trò của ông với tư cách cha đẻ của chủ nghĩa Lãng mạn trong âm nhạc đã được những nhà soạn nhạc tiếp nối trào lưu này thừa nhận, từ Berlioz và Wagner tới Debussy và Mahler. Phong cách giai điệu và hòa âm của ông bắt rễ sâu trong những nguyên tắc trường phái Cổ điển, nhưng khi đã thành thục ông thử nghiệm với âm nhạc bán cung. Ông cũng nằm trong số những nhà phối khí tài tình nhất, viết theo khuynh hướng khác thường nhưng kịch tính và những lối kết hợp nhạc cụ sinh động (clarinet và hom, dàn dây chặn tiếng hoặc không chặn tiếng, vân vân…) Mọi tác phẩm âm nhạc thành công nhất của ông đều ở một mức độ gây cảm hứng kịch tính nào đó. Ngoài opera, ông là một nhà soạn nhạc viết nhiều tác phẩm cho clarinet có nhiều cách tân, với một concertino và hai concerto cho clarinet, một ngũ tấu cho clarinet và đàn dây và đặc biệt là tác phẩm bậc thầy Grand duo concertant cho clarinet và piano. Những tác phẩm nổi tiếng khác của Weber còn gồm hai bản giao hưởng, concerto cho bassoon, một concertino cho horn (tác phẩm đòi hỏi kỹ thuật “polyphonics” dành cho nhạc cụ bộ đồng), Konzertstück viết cho piano và dàn nhạc giàu màu sắc và một số lied.

Weber là một nhà chỉ huy lớn, hiểu biết về dàn nhạc của ông còn lớn hơn cả Schubert và Beethoven dù về mặt tổng thể ông là một nhà soạn nhạc không thành công bằng những nhà soạn nhạc đó. Âm nhạc của Weber mang định hướng trình diễn hơn âm nhạc của Beethoven và đặc biệt là âm nhạc của Schubert tuy về mặt tư tưởng thì không sánh bằng. Với tư cách nhà chỉ huy, Weber đã tổ chức lại một cách có hệ thống những hoạt động của nhà hát và xây dựng nên hạt nhân của một đoàn Đức, tập trung vào các tác phẩm, phần lớn của Pháp, đưa ra hình mẫu cho sự phát triển của truyền thống opera Đức. Song việc ông tìm kiếm những cải cách (mở rộng tới cả phông cảnh, ánh sáng, cách bố trí dàn nhạc, kế hoạch và thù lao diễn tập) đã dẫn tới thái độ oán hận. Không phải chỉ đến nỗi thất vọng của ông lúc làm nhạc trưởng tại Dresden (1817) và thắng lợi không có tiền lệ của vở Der Freischütz (1821) ở Berlin và trên toàn nước Đức thì cuộc đấu tranh của ông cho một nền opera Đức đích thực mới giành được sự ủng hộ mang tính đại chúng. Những phản đối chính thức vẫn tiếp tục, cả từ việc thiết lập trường phái opera Ý ở Dresden và từ Spontini (sinh năm 1774 – mất năm 1851, tác giả opera và nhà chỉ huy Ý, phát triển sự nghiệp chủ yếu ở Paris và Berlin) ở Berlin song Weber đã đáp lại các nhà phê bình bằng vở opera lớn mang tính anh hùng ca Euryanthe (1823, Vienna). Ngoài sự nghiệp sáng tác và chỉ huy, Weber cũng viết phê bình âm nhạc và quan tâm đến thể loại dân ca.

───

PIANO HOUSE

HỆ THỐNG PHÂN PHỐI PIANO CAO CẤP

popup

S� l��ng:

T�ng ti�n: